VỀ THỜI ĐIỂM GHI NHẬN ĐẦU TIÊN LOÀI SÂU KEO Spodoptera frugiperda (Smith) (Lepidoptera: Noctuidae) Ở VIỆT NAM VÀ TÊN TIẾNG VIỆT CỦA NÓ
Ngày đăng : 18/07/2019


Phạm Văn Lầm

       Giống Spodoptera (Lep: Noctuidae) ở trên thế giới đã phát hiện được 25 loài. Loài sâu keo Spodoptera frugiperda là một trong 4 loài thuộc giống Spodoptera gây hại cây trồng có tầm quan trọng kinh tế lớn (Niaz et al., 2018). Loài sâu keo S. frugiperda có nguồn gốc tại vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới châu Mỹ. Loài côn trùng này có mặt ở phần lớn các nước tây bán cầu, từ phía nam Ca-na-đa đến Chi-lê và Ác-hen-ti-na (Luginbill, 1928; Midega et al., 2018; Todd and Poole, 1980).
Tại Brazil, sâu keo S. frugiperda gây giảm tới 34% năng suất ngô hạt dẫn đến tổng thiệt hại hàng năm tới 400 triệu đô la Mỹ. Sâu keo S. frugiperda hàng năm gây tổn thất hơn 500 triệu đô la Mỹ cho các vùng đông nam và duyên hải Atlantic của Hoa Kỳ (Ganiger et al., 2018).
       Sâu non của loài sâu keo S. frugiperda có tính đa thực, có thể sử dụng hơn 100 loài thuộc nhiều họ thực vật để làm thức ăn. Sâu keo S. frugiperda là loài côn trùng cánh vảy có khả năng di cư xa. Trưởng thành có thể bay được trên 100 km trong một đêm (Johnson, 1987). Do đó, loài côn trùng này đã trở thành loài ngoại lai xâm lấn gây hại nghiêm trọng trên cây ngô và một số cây trồng khác thuộc họ hòa thảo ở nhiều nơi trên thế giới. Vào đầu năm 2016 đã ghi nhận sự xâm lấn của loài sâu keo S. frugiperda tới vùng Trung tâm và phía Tây của châu Phi. Đến cuối năm 2016 và năm 2017 nó đã lây lan tới các vùng phía Nam, phía Đông và phía Bắc của châu Phi (Goergen et al., 2016; FAO, 2017).
      Tại Việt Nam, ngày 19-2-2019 Cục Bảo vệ thực vật có công văn số 351/BVTV-TV về điều tra và theo dõi sâu keo S. frugiperda. Trong công văn có đoạn ghi “Đây là loài sâu hại mới chưa phát hiện tại Việt Nam, được cảnh báo có khả năng phát tán vào Việt Nam và…”.
      Tuy nhiên, tại Hội nghị Khoa học toàn Quốc lần thứ ba về Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật được tổ chức ở Hà Nội vào ngày 22 tháng 10 năm 2009 có một công bố kết quả nghiên cứu năm 2008 về sâu hại cỏ thảm. Trong công bố này có kết quả điều tra thành phần sâu hại cỏ thảm trồng tại Phú Diễn (Hà Nội). Theo kết quả nghiên cứu này, đã phát hiện được 17 loài sâu hại cỏ thảm ở điểm nghiên cứu. Trong số những loài sâu hại đã phát hiện hại cỏ thảm, có 3 loài phát sinh rất phổ biến, với tần suất xuất hiện đạt từ 50% trở lên (được ký hiệu với 3 dấu cộng “+++”). Đó là các loài Spodoptera frugiperda (Smith), Herpetogramma phaeopteralis (Guenee) và Gryllotalpa africana Pal de Beauvois (Nguyễn Thị Kim Oanh, Vũ Thị Phượng, 2009). Tên khoa học của các loài sâu hại cỏ thảm trong công bố này được GS.TS. Brandenburg giám định (GS.TS. Brandenburg làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu và Giáo dục môi trường cỏ thảm ở Bắc Carolina, Hoa Kỳ). Như vậy, loài sâu keo S. frugiperda đã được ghi nhận từ năm 2008 và là một trong 3 loài phổ biến trên cỏ thảm tại Phú Diễn, Hà Nội.
       Công bố nêu trên được đăng tải trong tập báo cáo khoa học của một Hội nghị Khoa học toàn Quốc lần thứ ba về Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật do Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật tổ chức định kỳ. Bài đăng đã được phản biện và tập Báo cáo khoa học này được xuất bản chính thức (nhà xuất bản Nông nghiệp). Tập báo cáo khoa học của Hội nghị Khoa học toàn Quốc (không phải hội thảo) do Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật in ấn và phát hành là một tài liệu có giá trị tham khảo khoa học. Tập báo cáo khoa học này là những công bố khoa học nghiêm túc, có giá trị khoa học, giá trị pháp lý và giá trị tham khảo khoa học. Điều này có nghĩa là công bố về sự xuất hiện của sâu keo S. frugiperda trên cỏ thảm ở Phú Diễn năm 2009 là hoàn toàn có giá trị khoa học. Nếu có nhà nghiên cứu côn trùng nào đó viết tổng quan về côn trùng hại cây trồng hoặc nghiên cứu chuyên sâu về loài sâu keo S. frugiperda ở Việt Nam thì chắc chắn người đó sẽ phải tham khảo và trích dẫn công bố khoa học nêu trên mới được cho là đã tham khảo đầy đủ tài liệu tiếng Việt.
      Tuy nhiên, lại có ý kiến đánh giá thấp giá trị khoa học, giá trị pháp lý và giá trị tham khảo khoa học của công bố khoa học nêu trên, thậm chí coi công bố khoa học nêu trên không có giá trị, nghĩa là không công nhận sự ghi nhận về loài sâu keo S. frugiperda trên cỏ thảm ở Việt Nam năm 2008.
       Cơ sở để tin kết quả nghiên cứu trong một công bố khoa học là phương pháp nghiên cứu. Công bố khoa học nêu trên có phương pháp nghiên cứu đúng, việc giám định tên khoa học do một GS.TS. nước ngoài tiến hành. Điều này tự nói lên rằng kết quả nghiên cứu của công bố khoa học nói trên hoàn toàn đáng tin cậy.
      Ngoài tài liệu nêu trên, loài sâu keo S. frugiperda với tên là “sâu ăn lá” cũng đã được đưa vào chương III của cuốn sách “Côn trùng và động vật hại nông nghiệp Việt Nam” - sách chỉ viết về các loài côn trùng và động vật gây hại chính đã ghi nhận trên cây trồng phổ biến ở Việt Nam. Cuốn sách này được Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học viện Nông nghiệp Việt Nam) phối hợp với Hội Côn trùng học Việt Nam tổ chức biên soạn. Cuốn sách này được 37 nhà nghiên cứu côn trùng (TS, PGS, GS) trong cả nước tham gia biên soạn và do GS.TS. Nguyễn Văn Đĩnh, GS.TS. Hà Quang Hùng, GS.TS. Nguyễn Thị Thu Cúc, GS.TS. Phạm Văn Lầm làm chủ biên. Sách này được nhà xuất bản Nông nghiệp in năm 2012.
      Vào tháng 2 năm 2019, trên cây ngô vụ xuân ở nhiều nơi đã xuất hiện một loài sâu ăn lá với mật độ cao. Một số cán bộ kỹ thuật cũng như nông dân trồng ngô tại vài tỉnh khẳng định loài sâu keo hại trên cây ngô này đã xuất hiện trong vài năm nay. Loài sâu ăn lá này được xác định chính là sâu keo S. frugiperda. Các cán bộ kỹ thuật này nói rằng họ cứ nghĩ đó là loài sâu cắn nõn ngô (Mythimna loreyi) đã có lâu nay ở Việt Nam, nên không quan sát kỹ về đặc điểm hình thái của sâu. Điều này góp thêm dẫn liệu rằng sâu keo S. frugiperda đã xuất hiện ở Việt Nam trước tháng 2 năm 2019, chứ không phải như công văn số 351/BVTV-TV ký ngày 19-2-2019 của Cục Bảo vệ thực vật khẳng định “Đây là loài sâu hại mới chưa phát hiện tại Việt Nam,…”.
      Về tên tiếng Việt của loài sâu keo S. frugiperda trong công văn số 351/BVTV-TV ngày 19-2-2019 của Cục Bảo vệ thực vật đã ghi “Sau khi xem xét về phân loại, tập tính gây hại,… đề nghị tên tiếng Việt của loài sâu này là sâu keo mùa Thu”. Rất hoan nghênh việc đặt tên tiếng Việt ngay lập tức cho loài sâu hại này vì hiện nay còn rất nhiều loài côn trùng hại nói riêng và sinh vật hại nói chung trên các cây trồng ở nước ta (kể cả loài bản địa) vẫn chưa được gọi tên tiếng Việt.
     Nhưng, tên tiếng Việt “sâu keo mùa Thu” (từ “thu” được viết hoa theo công văn số 351/BVTV-TV) không có gì liên quan đến phân loại, tập tính gây hại của loài sâu keo S. frugiperda như giải thích trong công văn số 351/BVTV-TV. Tên “sâu keo mùa Thu” trong công văn số 351/BVTV-TV là dịch từ tên tiếng Anh “fall armyworm”. Tên tiếng Anh này với từ “fall” có thể xuất phát từ sự phát sinh/gây hại vào mùa thu tại châu Mỹ (quê hương của nó), nhưng cũng có thể không phải vậy, vì từ “fall” không chỉ có nghĩa là mùa thu, mà có nhiều nghĩa khác nhau tùy thuộc vào từ khác đi cùng với từ “fall”.
      Tên tiếng Việt được đặt cho các sâu hại dựa vào tiếng nước ngoài và tên latinh của loài nói chung là rất tốt. Tuy nhiên, tên tiếng Anh của côn trùng dịch sang tiếng Việt theo nghĩa từ điển trong nhiều trường hợp sẽ không đúng bản chất của loài côn trùng. Thí dụ, cụm từ tiếng Anh “the family Reduviidae consists…” đã được dịch theo nghĩa từ điển là “Reduviidae gia đình bao gồm…”; cụm từ “kissing bugs” là tên tiếng Anh của một loài bọ xít hút máu (Triatoma rubrofasciata) đã được dịch theo nghĩa từ điển là “hôn lỗi”; tên tiếng Anh của loài rệp giường mê-hi-cô là “mexican bed bug” đã được dịch theo nghĩa từ điển là “mexico giường lỗi”; cụm từ tiếng Anh “the word "bug" strictly refers only to the large order of insects…” đã được dịch theo nghĩa từ điển là “từ "lỗi" nghiêm chỉnh chỉ đề cập đến thứ tự lớn của côn trùng (Hemiptera)…” (Tạp chí Da liễu Online, 2001). Các cụm từ tiếng Anh liên quan đến côn trùng được dịch theo kiểu ghép nghĩa từ điển như nêu trên thì quả thật rất nực cười và không ai hiểu là gì ?
      Ngay sau khi công văn số 351/BVTV-TV ngày 19-2-2019 của Cục Bảo vệ thực vật được gửi tới các địa phương đã có câu hỏi được nêu ra là “Nó (=sâu keo S. frugiperda) phát sinh vào mùa thu mà bây giờ bắt đi điều tra thì làm gì có ?”. Như vậy, khi gọi loài S. frugiperda là “sâu keo mùa Thu” đã làm nảy sinh ý nghĩ rằng loài sâu keo này phát sinh gây hại vào mùa thu hàng năm. Điều này cho thấy cụm từ tiếng Việt “sâu keo mùa Thu” dùng để gọi tên cho loài S. frugiperda là không ổn, gây hiểu nhầm cho cán bộ kỹ thuật ở địa phương về thời gian xuất hiện trong năm của loài côn trùng hại này là vào mùa thu. Tương tự, cũng đã có sự hiểu nhầm do tên gọi tiếng Việt cho loài “Laodelphax striatellus”. Nhưng sự hiểu nhầm này lại về kích thước cơ thể của loài “Laodelphax striatellus”. Loài rầy này trước đây trong làng BVTV Việt Nam đã được biết đến với tên là “rầy xám” hay “muội xám”. Cách đây 10 năm, một cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định gọi loài “Laodelphax striatellus” với tên “rầy nâu nhỏ”. Ngay sau đó, tác giả bài viết này đã nhận được mẫu những cá thể của loài rầy nâu (Nilaparvata lugens) có kích thước cơ thể nhỏ từ vài địa phương gửi tới với câu hỏi những mẫu đó có phải là “rầy nâu nhỏ” ?
      Có ý kiến cho rằng dùng cụm từ “sâu keo mùa thu” để gọi tên cho loài “S. frugiperda” và “rầy nâu nhỏ” để gọi cho loài “Laodelphax striatellus” là để hội nhập quốc tế. Thật khó hiểu ý kiến này? Sử dụng tên gọi tiếng Việt cho côn trùng sao cho chuẩn xác, dễ hiểu, không gây hiểu nhầm và vẫn giữ nguyên tên tiếng Anh của nó (khi cần trao đổi quốc tế) thì có gì ảnh hưởng đến hội nhập quốc tế? Thí dụ, đối với loài “Laodelphax striatellus” gọi là “rầy xám” hay “muội xám” và vẫn dùng tên tiếng Anh là “small brown planthopper” thì hoàn toàn không ảnh hưởng đến hội nhập quốc tế.
      Có không ít loài côn trùng ngoại lai thường được sử dụng nguồn gốc của loài để gọi tên tiếng Việt (bất kể trong tên tiếng Anh có từ chỉ địa danh xuất xứ hay không). Thí dụ, loài Ceratitis capitata được gọi là ruồi đục quả địa trung hải, loài Bactrocera tsuneonis được gọi là ruồi đục quả nhật bản, loài Zabrotes subfasciatus được gọi là mọt đậu mê-hi-cô,… Như trên đã nêu, loài sâu keo S. frugiperda có nguồn gốc tại vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới châu Mỹ. Vậy tại sao không gọi là “sâu keo châu mỹ” mà lại gọi là “sâu keo mùa Thu” như trong công văn số 351/BVTV-TV ngày 19-2-2019 của Cục Bảo vệ thực vật?
      Tác giả bài viết này thấy rằng để chính xác hơn và tránh gây hiểu nhầm về thời gian phát sinh của loài sâu keo S. frugiperda thì cần phải gọi tên tiếng Việt của loài sâu keo S. frugiperda là “sâu keo châu mỹ”. Khi trao đổi với nhiều nhà nghiên cứu côn trùng lớn tuổi của Việt Nam về tên gọi này của loài sâu keo S. frugiperda thì tất cả đều ủng hộ quan điểm là cần phải gọi loài sâu keo S. frugiperda là “sâu keo châu mỹ”.

Tài liệu tham khảo


1. Côn trùng và động vật hại nông nghiệp Việt Nam, 2012. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội: 124-126.
2. Nguyễn Thị Kim Oanh, Vũ Thị Phượng, 2009. Báo cáo khoa học về Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật. Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ ba, Hà Nội, 22-10-2009. Nxb Nông nghiệp: 1490-1498.
3. FAO, 2017. Briefing note on FAO actions on fall armyworm in Africa.
4. Ganiger P.C., H.M. Yeshwanth, K. Muralimohan, N. Vinay, A.R.V. Kumar, K. Chandrashekara, 2018. Current Science, Vol.115(4): 621-623.
5. Goergen G., P.L. Kumar, S.B. Sankung, A. Togola, M. Tamò, 2016. PLoS ONE, 11(10):e0165632.doi:10.1371/journal.pone.0165632.
6. Hôn lỗi (Triatoma) và da. Tạp chí Da liễu Online, 2001, số 7 (1): 6.
7. Johnson S. J., 1987. International Journal of Tropical Insect Science, 8(4-5-6): 543-549.
8. Luginbill P., 1928. Technical Bulletin United States Department of Agriculture, Vol. 34:1-91.
9. Midega C.A.O., J.O. Pittchar, J.A. Pickett, G.W. Hailu, Z.R. Khan, 2018. Crop Protection, 105: 10-15.
10. Niaz U., A.Khan, M.U. Javed, M.Atif, Shahab-ud-Din, 2018. J. Agric. Sci. Bot., 2(3):1-4.
11. Todd E.L., R.W. Poole, 1980. Ann. Entomol. Soc. Am., 73:722-738.

 

Nguồn: Tạp chí BVTV số 4/2019

Các thông tin khác :
· GẶP NGƯỜI BẢO VỆ" DẢI LỤA XANH" CỦA QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA
· CHỈ THỊ 4962 VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG SÂU KEO MÙA THU HẠI NGÔ
· THÔNG TIN VỀ MỘT SỐ LOÀI SÂU HẠI XÂM LẤN VÀ SÂU HẠI MỚI NỔI Ở VIỆT NAM
· KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VÀ GIÁM ĐỊNH THÀNH PHẦN SÂU BỆNH HẠI VÀ HIỆN TƯỢNG RỤNG LÁ CHẾT CÂY NA Ở HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN
· KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHÂN TÍCH VÀ NHẬN ĐỊNH VỀ HIỆN TƯỢNG HÉO LÁ CHẾT CÂY NA TẠI LA HIÊN - VÕ NHAI – THÁI NGUYÊN VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP QUẢN LÝ TẠM THỜI
· KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRA THÀNH PHẦN SÂU, NHỆN HẠI CÂY NA TẠI LA HIÊN - VÕ NHAI – THÁI NGUYÊN VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP QUẢN LÝ TẠM THỜI
· CUỘC XÂM LĂNG TOÀN CẦU CỦA MỘT LOÀI SÂU MỚI
· TỈNH ĐẦU TIÊN CÔNG BỐ DỊCH SÂU KEO PHÁ LÚA
· LẦN ĐẦU TIÊN GHI NHẬN SỰ XUẤT HIỆN CỦA SÂU ĐỤC LÁ CÀ CHUA NAM MỸ Tuta absoluta (Meyrick) (Lepidoptera: Gelechiidae) Ở VIỆT NAM: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI, GIẢI PHẪU VÀ SINH HỌC PHÂN TỬ
· Kiểm tra, đánh giá kết quả triển khai đề tài KHCN
· Phong chức danh GS, PGS năm 2010
· Hội nghị đầu bờ: Phòng trừ bệnh thối nhũn hành, tỏi tại Hải Dương
· Hội nghị Khoa học và Công nghệ Viện BVTV năm 2010
· LỄ PHÁT ĐỘNG TẾT TRỒNG CÂY XUÂN TÂN MÃO 201
· BÁO CÁO NGÀY TÌNH HÌNH BỆNH LÙN SỌC ĐEN HẠI LÚA
· Hội thảo đánh giá kết quả thực hiện dự án: “Nâng cao năng suất và chất lượng hồng ngọt ở Việt Nam và Australia” năm 2010 và kế hoạch thực hiện trong năm 2011
· MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHÂN SINH KHỐI TẾ BÀO SÂU KHOANG (S. litura) ĐỂ PHỤC VỤ SẢN XUẤT CHẾ PHẨM VI RÚT NPV
· Tham quan mô hình trồng cây ăn quả ôn đới tại Bắc Hà- Lào Cai